Các giai đoạn lịch sử chính Văn_minh_Ấn_Độ

Bức vẽ trên vách đá cổ xưa

Nền văn minh cổ xưa trên lưu vực sông Ấn (3.000-1.800 TCN)

Các nhà khảo cổ đã tìm ra cái nôi đầu tiên của Ấn Độ tại lưu vực sông Ấn. Tại đây người ta tìm thấy những pho tượng một người đàn ông trong tư thế suy tưởng gợi đến môn phái yoga. Rất nhiều hiện vật được tìm thấy ở khu vực HarappaMohenjo có niên đại từ 3.000 dến 1.800 trước công nguyên. Những tìm tòi gần đây hé mở phần nào về sự lan tỏa của nền văn minh lưu vực sông Ấn rộng lớn về miền Bắc và miền Tây xa xôi cùng với cư dân lưu vực sông Ấn lại có quan hệ gần gũi với văn hóa Dravidian, từng phồn thịnh từ rất lâu ở miền Nam Ấn Độ trước khi người Aryan đặt chân đến.

Nền văn minh sông Ấn đã tồn tại hơn 700 năm trong thịnh vượng, những người thợ thủ công của nền văn minh này đã hoàn thành nhiều sản phẩm có tính mỹ thuật và chất lượng cao. Nhưng cũng bất thình lình như khi xuất hiện, nền văn hóa này lại biến mất mà nguyên nhân cho đến nay vẫn chưa rõ. Dường như từ khoảng năm 2000 trước Công Nguyên xuất hiện nhiều vấn đề lớn. Người dân rời bỏ thành phố, những người còn lại bị thiếu ăn. Vào khoảng năm 1800 trước Công Nguyên phần lớn các thành phố đều đã bị bỏ hoang. Trong những thế kỷ sau đó, các ký ức và thành tựu của nền văn hóa sông Ấn đã biến mất hoàn toàn. Các di sản của văn minh Ấn Độ sau này đều là của Nền văn minh Vệ Đà (xuất hiện khoảng 1.600 năm TCN) do tộc người Aryan từ Trung Á đem tới chứ không phải của văn minh sông Ấn bản địa.

Nền văn minh Vệ Đà (1.600-thế kỷ I TCN)

Bản đồ nền văn minh Vệ ĐàBức tượng Phật Thích-ca Mâu-ni đứng đã được tìm thấy

Ở vào khoảng thời gian 100 đến 1.600 TCN, một chi của người Aryan, thường được gọi là người Indo-Aryan, di cư đến Ấn Độ. Họ đem theo cùng với họ là tiếng Phạn và một tôn giáo dựa trên nghi lễ hiến tế các vị thần tượng trưng cho các thế lực của thiên nhiên như Indra, thần mưa và sấm, thần Agni (lửa) và Varuma, chúa tể của các sông biển và mùa màng. Những bài ngợi ca vị thần ấy được tập hợp lại thành bốn tập Kinh Vệ Đà. Lâu đời nhất là tập Rigveda (1.500-1.200 Tr. C.N.). Đặc điểm của Kinh Veda là hướng con người đến tư tưởng cao cả, văn phong đẹp đẽ và bước chuyển những nghi thức từ bên ngoài vào kinh nghiệm nội tại. Thời kỳ này chính là thời kỳ có thuyết nói rằng cùng với nó là sự ra đời Đức Phật

  • Những tượng đồng ở triều đại Chola
  • Tháp chứa hài cốt Sanchi, xây dựng vào triều đại Mauyran
  • Khối đá khắc nguyên khối ở hang Ellora
  • Bức họa trên tường ở hang Ajanta
  • Bức tượng thần Shiva và vợ
  • Đồng tiền triều đại Gupta
  • Đồng tiền bạc 205-171 Tr. C.N.
  • Đồng tiền Vua của các vị vua 35-12 Tr. C.N.

Vào năm 326 TCN Alexandros người Macedonia vượt sông Indus và đánh thắng một trận quyết định và rút về. Cuộc xâm lăng của ông đã để lại dấu ấn của thế giới Hy Lạp, nâng văn hóa Ấn Độ lên một tầm cao mới.

Vào năm 320 TCN. Chandragup-ta Maurya (hoàng đế Maurya) thống nhất trở lại toàn bộ các bộ lạc rời rạc và thành lập chế độ tập quyền, kinh đô được đặt tại Pataliputra (bang Bihar ngày nay).

Đế chế Gupta

Thời kỳ hoàng kim của nền văn minh Ấn Độ thuộc vào thời kỳ triều đại Gupta. Thời kỳ này có nhiều thành tựu nổi bật về văn hóa trồng trọt. Thời kỳ này nền văn minh Ấn Độ đã để lại cho nhân loại một khối lượng các di sản khổng lồ.